'Tranquility Base Hotel & Casino': đẳng cấp quý ông của Arctic Monkeys
'Tranquility Base Hotel & Casino': đẳng cấp quý ông của Arctic Monkeys
/

‘Tranquility Base Hotel & Casino’: Đẳng cấp quý ông của Arctic Monkeys

Bắt đầu
18 phút đọc

Âm nhạc và ca từ trong album Tranquility Base Hotel & Casino là sự thay đổi lớn với nhóm nhạc Arctic Monkeys, nhưng theo hướng tích cực.


Vậy là đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi con người đặt chân lên mặt trăng lần đầu. Để kỷ niệm sự kiện ấy, đạo diễn Damien Chazelle làm nên bộ phim cô độc buồn bã mang tên First Man. Ban nhạc Arctic Monkeys lại tạo ra album bi hài đắng chát mang tên Tranquility Base Hotel & Casino.

Từ những chàng trai đến những quý ông

Quay ngược trở lại thời điểm năm 2002 khi Alex Turner cùng ba người bạn của mình sáng lập nên nhóm nhạc mang tên Arctic Monkeys, hẳn các chàng trai trẻ khi ấy không hề nghĩ rằng cái tên đó sẽ đi vào lịch sử.

Không chỉ là một trong những nhóm nhạc đầu tiên nổi tiếng nhờ mạng internet, Arctic Monkeys còn góp phần tạo nên thành công của cơn bão nhạc số và nhanh chóng càn quét gần như mọi bảng xếp hạng ở Anh.

Họ phát hành sáu album phòng thu thì đều đứng vị trí đầu bảng khi ra mắt, bảy lần thắng giải Brit thì đến ba lần đồng chiếm hai hạng mục “Album nhạc Anh xuất sắc” lẫn “Nhóm nhạc Anh xuất sắc”.

Chưa kể album đầu tay Whatever People Say I Am, That’s What I’m Not (2006) vẫn giữ vững kỷ lục là album có tốc độ bán nhanh nhất của một ban nhạc tại Anh, tính đến thời điểm hiện tại.

Với khán giả, Alex Turner là linh hồn của Arctic Monkeys (trưởng nhóm, sáng tác và hát chính); còn với Alex Turner, Arctic Monkeys là hơn phân nửa cuộc đời (Alex sinh năm 1986, khi nhóm thành lập anh mới mười sáu tuổi, bây giờ anh đã ba mươi hai).

Sau thành công vang dội từ album gần nhất AM – phát hành hơn ba triệu rưỡi bản toàn cầu, Alex bị mất cảm hứng sáng tác trong một thời gian dài. Dường như những ca khúc ủ ê về nỗi buồn thất tình như Why’d You Only Call Me When You’re High? hay R U Mine? đã không còn đủ sức hấp dẫn đối với anh.

Cuối năm 2014, sau khi kết thúc tour diễn cùng tên để quảng bá cho AM, nhóm tuyên bố nghỉ xả hơi một thời gian còn Alex Turner thì trở về với những dự án của riêng mình. Anh tập trung thực hiện album thứ hai cho siêu ban nhạc The Last Shadow Puppets (Everything You’ve Come to Expect, 2016), viết và sản xuất cho album đầu tay của nữ ca sĩ sinh năm 1995 người Mỹ Alexandra Savior (Belladonna of Sadness, 2017).

Album Tranquility Base Hotel & Casino không giống với bất kỳ điều gì Arctic Monkey từng thực hiện, nên có thể sẽ lạ lẫm đối với những khán giả trung thành của nhóm.
Album Tranquility Base Hotel & Casino không giống với bất kỳ điều gì Arctic Monkey từng thực hiện, nên có thể sẽ lạ lẫm đối với những khán giả trung thành của nhóm.

Diễn biến đó khiến Tranquility Base Hotel & Casino trở thành album có thời gian thực hiện lâu nhất (gần năm năm), cũng là album tham vọng nhất, phiêu lưu nhất của “những chú khỉ đến từ Bắc cực”. Điều quan trọng là, nó không hề giống với bất kỳ sản phẩm nào từng đóng mác Arctic Monkeys từ trước đến nay – một cú sốc đối với những khán giả trung thành, nhưng cũng là bước đệm hoàn hảo để những chàng trai “lột xác” trở thành những quý ông thực thụ.

Trong album, nhóm vẫn tiếp tục cộng tác cùng nhà sản xuất thân thuộc James Ford (thực hiện cả bốn album trước đó), nhưng Alex Turner đã mạnh dạn hơn khi lần đầu tiên tham gia vào vai trò đồng sản xuất. Vì vậy, không quá khó hiểu khi album mang nhiều dấu ấn cá nhân của Alex Turner hơn là bản thân Arctic Monkeys. Một vài bài hát nghe như là lời tự sự của riêng Alex, cho thấy những luồng cảm xúc tiêu cực mà anh phải đối diện trong quá trình thực hiện album.

Trong ca khúc mở màn, Star Treatment, Alex tự mô tả mình như là một “cậu bé vàng” – gợi nhớ ca từ quen thuộc của cố nhạc sĩ Leonard Cohen – nhưng “trong thể trạng xấu” (golden boy’s in bad shape), một ca sĩ kiếm tiền dễ như chơi với lịch diễn “hai sô một ngày, bốn đêm một tuần” (Two shows a day, four nights a week), kẻ “chỉ muốn trở thành một thành viên của nhóm The Strokes” mà thôi (I just wanted to be one of The Strokes).

Đến ca khúc thứ hai, One Point Perspective, ta hình dung về một chàng nhạc sĩ ngồi cô độc trong phòng tĩnh nghe nhạc phim để tìm cảm hứng (I’ve played to quiet rooms like this before), đã có lần anh muốn điều hành chính phủ (run for government), rồi lại không ít lần quên mất điều mình đang nghĩ suy (I lost my train of thought).

‘Chuyến du hành không gian’ năm 2018

Thật khó để tách Tranquility Base Hotel & Casino ra thành từng bài riêng lẻ, bởi ngoại trừ một số sáng tác như Four Out Of Five hay Star Treatment, thì các bài còn lại gần như không có một câu chuyện riêng biệt cụ thể.

11 ca khúc chỉ thực sự tỏa sáng khi đứng cạnh nhau, hợp thành một tổng thể thống nhất, một concept album có định hướng chủ đề rõ ràng. Alex Turner lại không cố định người nghe ở một góc nhìn duy nhất mà liên tục hóa thân thành những nhân vật khác nhau, tạo nên sự đa chiều về mặt nội dung: lúc thì đả kích chính trị, lúc thì cảnh tỉnh về những mặt trái của công nghệ, có lúc lại bộc lộ sự lạc lõng của con người trong thế giới hiện đại.

Tạm lùi mốc thời gian về xa hơn một chút vào năm 1969, khi Neil Armstrong cùng người bạn đồng hành Buzz Aldrin đáp con tàu Apollo 11 xuống mặt trăng thành công, họ lập tức đặt tên nơi trú ẩn của mình – khoảng 18 giây sau đó – là Tranquility Base.

Mượn địa điểm sẵn có và một chút cảm hứng từ cuốn phim kinh điển 2001: A Space Odyssey của Stanley Kubrick, Alex Turner vẽ nên một thế giới giả tưởng khi nguy cơ tận thế sắp sửa ập đến trái đất (just as the apocalypse finally gets prioritised).

Khi đó, mọi người dần chuyển hết sang những hành tinh khác để sinh sống, còn mặt trăng được miêu tả như là một Las Vegas ngoài không gian và Tranquility Base nay đã trở thành một khạch sạn hạng sang dành riêng cho giới thượng lưu sành điệu.

YouTube player
MV ca khúc Four Out of Five trích từ album Tranquility Base Hotel Casino của nhóm nhạc Arctic Monkeys.

Trong ca khúc chủ đề, Tranquility Base Hotel & Casino, Alex Turner vào vai Mark (cái tên không khỏi khiến ta liên tưởng đến Mark Zuckerberg), một nhân viên lễ tân của khách sạn đang trả lời điện thoại của khách hàng.

Lời hát tái hiện chốn thiên đường bằng chút sắc màu giễu nhại: một vị khách tự nhận mình là Chúa Jesus, đang điền phiếu thông tin trong tiệm spa (Jesus in the day spa, filling out the information form). Sau đó, người khác nhận vơ là “mẹ”, vừa mới làm đầu xong, sắp sửa nhào ra đường để ca một bài phảng kháng (mama got her hair done, just popping out to sing a protest song); một cô gái buông lời tán tỉnh Mark qua điện thoại khi đang hứng tình vì những tiến bộ công nghệ (technological advances really bloody get me in the mood).

Song, anh chỉ đáp lại bằng những câu hờ hững quen thuộc hàng ngày: “quý khách muốn tôi chuyển cuộc gọi cho ai?” (Please, tell me, how may I direct your call?).

Đĩa đơn mở màn Four Out of Five tiếp tục lột tả cái không khí sang trọng hào nhoáng ở chốn mặt trăng, nơi “đêm không xảy đến và ngày chẳng hề tồn tại” (all the nights that never happened and the days that don’t exist), mọi người vận đồ tông màu bạc-trắng để tiệc tùng vào mỗi tối thứ bảy (Lunar surface on a Saturday night, dressed up in silver and white).

Như thể vừa mới nhập vai trở thành Don Drapper từ sê-ri Mad Man, Alex Turner không ngừng mời gọi những lữ khách phương xa bằng những câu hát sặc mùi quảng cáo: nào là nước rất xinh (water’s lovely), bay đến cũng dễ lắm (it’s such an easy flight),  thậm chí tên bạn sẽ nằm sẵn trong danh sách mọi câu lạc bộ (I can get you on the list for all the clubs).

Bìa album Tranquility Base Hotel & Casino do chính Alex Turner sáng tạo dựa trên phim trường bộ phim 2001: A Space Odyssey của đạo diễn Stanley Kubrick.
Bìa album Tranquility Base Hotel & Casino do chính Alex Turner sáng tạo dựa trên phim trường bộ phim 2001: A Space Odyssey của đạo diễn Stanley Kubrick.

Khi anh ra đi trái đất còn lại gì?

So với những album trước đây của Arctic Monkeys, Tranquility Base Hotel & Casino vẫn giữ nguyên cái không khí đậm đặc từ cuộc sống về đêm, nhưng âm nhạc chậm rãi hơn, hòa quyện giữa lounge rock với space rock, kèm theo một chút vị jazz. Nhóm đã xê dịch hoàn toàn sự sôi động, náo nhiệt từ những sàn nhảy câu lạc bộ sang không gian ngập mùi khói thuốc của những quán bar nhạc sống ẩn mình trong các khách sạn xa lạ.

Chọn mốc thời gian ở thì tương lai, nhưng toàn bộ các ca khúc đều được các nhà sản xuất phủ lên một lớp bụi quá khứ: từng tiếng riff thô ráp của guitar, những cú đánh dữ dội từ trống và tiếng piano đặc quánh, tạo nên một cảm giác hoài cổ xen lẫn bùi ngùi, gợi nhớ thời kỳ đỉnh cao của nhạc rock nửa cuối thập niên 60 – đầu 70 với những tên tuổi lẫy lừng như David Bowie, Nick Cave, Bob Dylan hay Eagles.

Càng về sau thì những chủ đề và nội dung mà Alex Turner muốn gửi gắm bắt đầu được thể hiện rõ nét hơn, nhưng âm nhạc cũng kém bắt tai và khó nghe hơn khi thiên hẳn về psychedelic rock. Đối diện một mặt trăng xa hoa, tráng lệ từ phía xa là hình ảnh một địa cầu đầy hỗn loạn, thật giả bất phân.

Trong American Sports, Alex Turner nhìn về nước Mỹ một cách ngán ngẩm, khi tin thời sự không còn sự thật mà bị thay đổi xoành xoạch (breaking news, they take the truth and make it fluid). Golden Trunks nhắc khéo đến Donald Trump, “nhà lãnh đạo của thế giới tự do, gợi nhớ một đô vật mặc quần trunks bó sát bằng vàng” (The leader of the free world, reminds you of a wrestler wearing tight golden trunks).

YouTube player
MV ca khúc chủ đề trích từ album Tranquility Base Hotel & Casino của Arctic Monkeys.

Trong một sáng tác có cái tên rất dài, The World’s First Ever Monster Truck Front Flip, Alex Turner đổi vai làm “một gái hư cố trở nên ngoan” (I’m just a bad girl trying to be good). Nhan đề bài hát bắt nguồn từ một video cùng tên từ cuộc thi Monster Jam World Finals năm 2017 được xuất bản trên mạng YouTube.

Anh mượn câu quảng cáo nổi tiếng của hãng máy ảnh Kodak làm điệp khúc – “bạn cứ việc bấm nút, chúng tôi sẽ lo tất” (you push the button and we’ll do the rest) – để nhấn mạnh sự tiện nghi của thế giới hiện đại khi con người không phải suy nghĩ điều gì vì đã có máy móc thay thế.

Tương phản với hình ảnh đó là lời hát mô tả cho thấy sự suy giảm trí lực của bộ não như một hệ quả của công nghệ (brain shrinking moving images). Những những ký ức rời rạc – khi thì nhớ Lizzy trong một mùa hè, khi lại nhớ Genie đội mũ Stetson – cứ “quấn quanh trí nhớ bé tẹo của tôi như một khúc hát ru” (wrapping my tiny mind around a lullaby).

Các sáng tác tiếp theo là những cú đấm mạnh mẽ vào mặt trái của công nghệ. Science Fiction thể hiện nỗi lo lắng của người hát trước “sự trỗi dậy của những cỗ máy” (the rise of the machines). She Looks Like Fun khiến ta rùng mình khi phản chiếu hình ảnh một trái đất lạnh tanh vì thiếu vắng bóng người: “trên đường chẳng có một ai, ta chuyển sang trực tuyến hết rồi” (No one’s on the streets, we moved it all online).

Anh than thở trong Batphone rằng mình “bị hút vào một cái lỗ vì thiết bị cầm tay” (I got sucked into a hole through a handheld device). Ca khúc cuối – The Ultracheese – lại là bản rock ballad cổ điển với piano chủ đạo, tên gọi như dự báo trước về độ sến sẩm của nam ca sĩ. Alex thổ lộ về nỗi cô đơn của bản thân: “Vẫn giữ hình bạn bè ‘trên tường’, nhưng tôi nghĩ bọn tôi chẳng còn là ‘bạn bè’ nữa” (Still got pictures of friends on the wall, I suppose we aren’t really friends anymore).

Đứng sau thành công của Arctic Monkeys luôn là trưởng nhóm Alex Turner. Các ca khúc trong album Tranquility Base Hotel & Casino cho thấy ngòi bút chắc chắn, trưởng thành của anh.
Đứng sau thành công của Arctic Monkeys luôn là trưởng nhóm Alex Turner. Các ca khúc trong album Tranquility Base Hotel & Casino cho thấy ngòi bút chắc chắn, trưởng thành của anh.

Tiêu chuẩn “bốn trên năm sao”

Tranquility Base Hotel & Casino không phải là một album dễ nghe (Alex Turner gần như phớt lờ yếu tố “hook” của một ca khúc thông thường), ý tưởng cũng không quá mới lạ (một ly cock-tail pha trộn giữa Hotel California của Eagles, Moon Landing của James Blunt lẫn Pure Comedy của Father John Misty), âm nhạc thiên về tri ân sự cổ điển hơn là mang tính hiện đại.

Ngay cả việc hy sinh những tiếng guitar đặc trưng của nhóm để nhường đất trình diễn cho piano cũng sẽ khiến nhiều người phải phật lòng. Song, nó vẫn cho thấy sự tự tin của một ban nhạc luôn sẵn sàng thay đổi theo thời gian: từ garage rock, post-punk đến hip-hop, R&B và nay là lounge rock, psychedelic rock.

Đặc biệt, Alex Turner vẫn chứng tỏ rằng mình là một trong số những nhạc sĩ tài ba của thế hệ này. Ngòi bút của anh châm biếm vừa phải, ca từ trưởng thành, chững chạc hơn, liên tục tham chiếu đến những yếu tố của văn hóa đại chúng một cách đầy thông thái – từ Blade RunnerIn the mood for love, hay Vengeance Trilogy (Bộ ba Báo Thù) của đạo diễn Park Chan-wook.

Thậm chí, Alex còn tự chấm điểm cho mình từ trước, nhưng anh chỉ khiêm tốn lấy “bốn trên năm sao” thôi. Lý giải cho điều này, anh thừa nhận đây là một lời mỉa mai vì các nhà phê bình gần như “không bao giờ cho điểm 100 hoàn hảo.”

Khi bộ phim First Man của Damien Chazelle kết thúc, Neil Armstrong trở về trái đất trong vòng tay của gia đình. Cái kết đẹp đó không hề xảy ra trong chuyến hành trình mang tên Tranquility Base Hotel & Casino.

Khi album kết thúc, người nghe gần như mắc kẹt trong những căn phòng lạnh lẽo ở khách sạn Tranquility Base không lối thoát – hệt như khi Alex Turner nhốt mình trong Lunar Surface (tên studio riêng của anh ở Los Angeles) để viết ra phần lớn các ca khúc trong album này.

Sau tất cả, anh vẫn tiếp tục hát về tình yêu: “Nhưng anh chưa ngừng yêu em dù chỉ một lần” (But I haven’t stopped loving you once). Có lẽ, khán giả lại phải chờ thêm một khoảng thời gian nữa mới có thể được nghe Arctic Monkeys chơi những bản nhạc tình.


Đánh giá: **** (4/5)


Thông tin:
  • Album Tranquility Base Hotel & Casino nhận đề cử Grammy 2019 cho “Abum Alternative xuất sắc”.

Sơn Phước

Người viết tự do, chuyên viết về điện ảnh và âm nhạc.

Theo dõi Facebook page để cập nhật thêm thông tin bài.

Trả lời

Your email address will not be published.

Trước đó

Từ ‘Ida’ đến ‘Cold War’: Những cuộc chiến của Pawel Pawlikowski

Tiếp theo

2018: Biệt đội siêu diva trở lại | PLAYLIST

Latest from Âm nhạc